Chiếc
Tachikawa Ki-36 là một kiểu máy bay hiệp đồng tác chiến cùng bộ binh (
máy bay trinh sát) của
Lục quân Đế quốc Nhật Bản trong
Thế Chiến II. Ki-36 là một kiểu
máy bay cánh đơn hai chỗ ngồi trang bị một
động cơ piston và
bộ càng đáp cố định.Chiếc nguyên mẫu, trang bị động cơ Hitachi Ha-13 công suất 450 mã lực (336 kW), bay chuyến bay đầu tiên vào ngày
20 tháng 4 năm
1938. Có tính năng bay vượt trội hơn chiếc
Mitsubishi Ki-35 trong những thử nghiệm so sánh, chiếc Ki-36 được đặt tên chính thức là
Máy bay Trinh sát Hiệp đồng Trực tiếp Kiểu 98 và được đưa vào sản xuất từ
tháng 11 năm
1938. Việc sản xuất kết thúc vào
tháng 1 năm
1944 sau khi có tổng cộng 1.334 chiếc được chế tạo.Chiếc Ki-36 được đưa ra hoạt động đầu tiên tại
Trung Quốc nơi nó rất thành công. Sau đó, tại
Mặt trận Thái Bình Dương, nó tỏ ra rất mong manh trước những chiếc
máy bay tiêm kích đối địch, nên được tái bố trí đến các chiến trường an toàn hơn tại Trung Quốc. Cho đến cuối cuộc chiến, chiếc Ki-36 được sử dụng như một máy bay tấn công cảm tử
Thần phong (kamikaze) với một trái bom 500 kg (1.102 lb) gắn bên trong.